Thứ Ba, 11 tháng 9, 2007

VIỆT NAM


( Nguồn của Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)

Bài này nói về chính thể hiện nay có tên Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để tìm hiểu các chính thể cận đại trước đây, xin xem
Việt Nam (định hướng). Để tìm hiểu về quốc hiệu Việt Nam, xin xem bài Quốc hiệu Việt Nam.


Việt Nam (tên chính thức Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) là một quốc gia nằm phía đông của bán đảo Đông Dương, thuộc khu vực Đông Nam Á. Lãnh thổ Việt Nam tiếp giáp với nước Trung Quốc ở phía bắc, nước Lào và nước Campuchia ở phía tây, vịnh Thái Lan ở phía tây nam và biển Đông ở phía đông và phía nam với hơn 4.000 hòn đảo, bãi đá ngầm lớn nhỏ, gần và xa bờ, có vùng nội thuỷ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được Chính phủ Việt Nam (hiện nay) xác định gần gấp ba lần diện tích đất liền (khoảng trên 1 triệu km²). Trên biển Đông có quần đảo Trường SaHoàng Sa mà Việt Nam khẳng định chủ quyền nhưng một số nước láng giềng khác cũng khẳng định chủ quyền toàn bộ hay từng phần các quần đảo này.
Sau khi
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc giành được chiến thắng với Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam ngày 30 tháng 4 năm 1975, hai miền được thống nhất. Ngày 2 tháng 7 năm 1976 nước Việt Nam được đặt tên hiệu là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Lịch sử

Xem chi tiết: Lịch sử Việt Nam
Lịch sử Việt Nam được bắt nguồn từ sự định cư của các tộc người Việt cổ trong thời Văn Lang mà theo nhiều tài liệu là từ năm 2879 TCN. Bắt đầu từ thế kỷ 2 TCN, các dân tộc này bị các tập đoàn phong kiến phương Bắc cai trị trong hơn 1000 năm. Sau nhiều lần khởi nghĩa không thành, hoặc chỉ giành độc lập ngắn (60 năm thời Lý Bí), đến năm 938, Việt Nam giành được độc lập lâu dài sau trận chiến lịch sử trên sông Bạch Đằng. Dân tộc Việt xây dựng nhà nước độc lập trên cơ sở học tập mô hình thể chế chính trị và xã hội, chữ viết (chữ Hán), nghệ thuật và văn hóa của người Trung Quốc. Trải qua các triều đại phong kiến, và với những lần mở rộng lãnh thổ xuống phía nam, đất nước Việt Nam thống nhất với ranh giới địa lý gần như hiện nay vào năm 1802. Đến giữa thế kỷ 19, cùng với Đông Dương, Việt Nam trở thành một thuộc địa của Pháp. Trong Thế chiến thứ hai, phát xít Nhật chiếm Việt Nam và toàn thể Đông Dương, ngay sau khi hay tin quân Đồng Minh chiến thắng, Việt Minh đã giành lại chính quyền từ tay phát xít Nhật. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhà nước đầu tiên của nước Việt Nam hiện đại.
Sau Thế chiến thứ hai, người Pháp muốn chiếm lại thuộc địa Đông Dương nhưng vấp phải sự phản kháng quyết liệt của người Việt Nam. Sau chiến thắng của
Việt Minh tại chiến trường Điện Biên Phủ ngày 7 tháng 5 năm 1954, Pháp buộc phải rút khỏi Đông Dương. Hiệp định Genève được ký kết, chấm dứt ách đô hộ gần một trăm năm của Pháp tại Việt Nam, đồng thời chia đôi nước Việt Nam và lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới, định sau 2 năm sẽ tiến hành tổng tuyển cử cả nước. Tuy nhiên, vì nhiều tác nhân bên ngoài nên trong hoàn cảnh lịch sử đó, Hiệp định Genève đã bị phá vỡ. Nước Việt Nam Cộng hòa được thành lập ở miền Nam được Hoa Kỳ và một số nước đồng minh hậu thuẫn và các nước trong thế giới tự do công nhận, với chính quyền trong tay những người không tham gia chống xâm lược Pháp. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo mô hình xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, được thành lập tại miền Bắc là nước được Liên Xô, Trung Quốc hậu thuẫn và được các nước trong khối xã hội chủ nghĩa khác công nhận và giúp đỡ. Chính quyền miền Bắc có nòng cốt là Việt Minh.

Xung đột giữa hai miền mở ra một cuộc chiến tranh kéo dài suốt gần 2 thập kỷ. Năm
1964, Hoa Kỳ can thiệp, đưa quân Mỹ vào chiến đấu trực tiếp tại chiến trường Việt Nam, và thực hiện các đợt ném bom miền Bắc bằng máy bay B-52. Đến tháng 1 năm 1973, sau những tổn thất vuợt ngưỡng chịu đựng trên chiến trường Việt Nam, cùng với những khó khăn trên chính trường Mỹ cộng với tác động của phong trào phản chiến trong nước và trên thế giới, Hoa Kỳ ký Hiệp định Paris, và rút quân khỏi Việt Nam. Chiến tranh Việt Nam được coi như kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi chính quyền của Việt Nam Cộng hòa đầu hàng.
Năm
1976, nước Việt Nam thống nhất đổi tên hiệu là nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Sau chiến tranh, nhiều chính sách sai lầm đã đưa Việt Nam vào các khủng hoảng trầm trọng về kinh tế và xã hội. Đại hội Đảng lần VI năm 1986 chấp thuận chính sách Đổi mới theo đó cải tổ bộ máy nhà nước, và chuyển đổi nền kinh tế theo hướng kinh tế thị trường. Giữa thập niên 1990, Việt Nam bắt đầu hội nhập vào cộng đồng quốc tế. Năm 1995, Việt Nam gia nhập khối ASEAN, sau khi bình thường hóa quan hệ với Mỹ một năm trước đó. Hiện giờ Việt Nam là thành viên của Liên Hiệp Quốc, Cộng đồng Pháp ngữ, ASEAN, APEC và trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào ngày 7 tháng 11 năm 2006 sau 11 năm đàm phán.

Địa lý

Xem chi tiết: Địa lý Việt Nam, Du lịch Việt Nam, và Đa dạng sinh học Việt Nam. Việt Nam nằm trong bán đảo Đông Dương, thuộc vùng Đông Nam châu Á. Lãnh thổ Việt Nam chạy dọc bờ biển phía đông của bán đảo này; ngoài ra, Việt Nam luôn khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc lãnh thổ lịch sử của mình. Việt Nam có biên giới đất liền với Trung Quốc (1.281 km), Lào (2.130 km) và Campuchia (1.228 km) và bờ biển dài 3.444 km tiếp giáp với vịnh Bắc Bộ, biển Đôngvịnh Thái Lan.
Việt Nam có diện tích 331.688
km², bao gồm khoảng 327.480 km² đất liền và hơn 4.200 km² biển nội thuỷ, với hơn 4.000 hòn đảo, bãi đá ngầm lớn nhỏ, gần và xa bờ, có vùng nội thuỷ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được Chính phủ Việt Nam xác định gần gấp ba lần diện tích đất liền khoảng trên 1 triệu km². Địa thế có những đồi và những núi đầy rừng, trong khi đất phẳng che phủ khoảng ít hơn 20%. Núi rừng chiếm độ 40%, đồi 40%, và độ che phủ khoảng 75%. Miền Bắc gồm có cao nguyên và vùng châu thổ sông Hồng; miền Trung là phần đất thấp ven biển, những cao nguyên theo dãy Trường Sơn, và miền Nam là vùng châu thổ Cửu Long. Điểm cao nhất Việt Nam là 3.143 mét, tại đỉnh Phan Xi Păng, thuộc dãy núi Hoàng Liên Sơn. Diện tích đất canh tác chiếm 17% tổng diện tích đất Việt Nam.
Việt Nam có khí hậu
nhiệt đới ở miền nam với hai mùa (mùa mưa, từ giữa tháng 5 đến giữa tháng 9, và mùa khô, từ giữa tháng 10 đến giữa tháng 3) và khí hậu gió mùa ở miền bắc với bốn mùa rõ rệt (mùa xuân, mùa hè, mùa thumùa đông). Do nằm dọc theo bờ biển, khí hậu Việt Nam được điều hoà một phần bởi các dòng biển và mang nhiều yếu tố khí hậu biển. Độ ẩm tương đối trung bình là 84% suốt năm. Hằng năm, lượng mưa từ 1.200 đến 3.000 mm, và nhiệt độ từ 5°C đến 37°C.

Việt Nam có nhiều mỏ khoáng sản trên đất liền, rừng tự nhiên và một số mỏ dầu, khí, quặng khoáng sản ngoài khơi. Hàng năm, Việt Nam luôn phải phòng chống bãolụt lội.

Chính trị

Xem chi tiết: Chính trị Việt Nam
Việt Nam hiện nay là một nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính trị đã thực hiện theo cơ chế chỉ có duy nhất một đảng chính trị (là Đảng Cộng sản Việt Nam) lãnh đạo, với tôn chỉ là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ thông qua cơ quan quyền lực là Quốc hội Việt Nam. Trên thực tế cho đến nay (2007) các đại biểu là đảng viên trong Quốc hội có tỉ lệ từ 90% trở lên[1], những người dẫn đầu Chính Phủ và Quốc Hội đều là đảng viên kỳ cựu và được Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đề cử.

Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất lãnh đạo theo quy định trong điều 4 của
Hiến pháp. Người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam là một Tổng bí thư. Tổng bí thư hiện nay (2007) là ông Nông Đức Mạnh.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Nhiệm vụ của Quốc hội là giám sát, quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, các nhiệm vụ kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, những nguyên tắc chủ yếu của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Nhiệm kỳ Quốc hội là 5 năm. Chủ tịch Quốc hội được Quốc hội bầu do đề cử của Bộ Chính trị. Chủ tịch Quốc hội hiện nay (2007) là ông Nguyễn Phú Trọng.
Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước được Quốc hội bầu do Chủ tịch Quốc hội giới thiệu từ đề cử của Bộ Chính trị. Chủ tịch nước có 12 quyền hạn theo Hiến pháp trong đó quan trọng nhất là: công bố hiến pháp, luật, pháp lệnh; thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh; đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm Phó chủ tịch nước, Thủ tướng, Chánh án Toà án tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao. Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước là 5 năm. Không có quy định giới hạn số nhiệm kỳ được làm Chủ tịch nước. Chủ tịch nước hiện nay (2007) là ông Nguyễn Minh Triết.

Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ chịu sự giám sát và thực hiện chế độ báo cáo công tác trước Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Nhiệm kỳ Chính phủ là 5 năm. Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. Đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng Chính phủ do Chủ tịch nước giới thiệu từ đề cử của Bộ Chính trị để Quốc hội bầu. Không có quy định giới hạn số nhiệm kỳ được làm Thủ tướng Chính phủ.
Thủ tướng Chính phủ hiện nay (2007) là ông Nguyễn Tấn Dũng. Các Phó Thủ tướng do Thủ tướng đề nghị Quốc hội phê chuẩn, là người giúp việc cho Thủ tướng và được Thủ tướng ủy nhiệm khi Thủ tướng vắng mặt. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ do Thủ tướng đề nghị Quốc hội phê chuẩn, đảm nhiệm chức năng quản lý Nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác được giao. Việc tổ chức nhân sự cấp cao này đều thông qua Bộ Chính trị và các viên chức này đều do Trung ương đảng quản lý.
Chính phủ Việt Nam có 18 bộ và 4 cơ quan ngang bộ. Chính phủ còn quản lý 8 cơ quan trực thuộc như
Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam,Đài Tiếng nói Việt Nam,... Những người lãnh đạo như Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội, cũng như các bộ trưởng hay các vị trí quản lý chủ chốt trong bộ máy Nhà nước và Chính phủ đều do đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đảm nhiệm dù rằng hiến pháp không qui định.

Chính sách đối ngoại

Theo các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam: Đảng Cộng sản và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chủ trương thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm "Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lậpphát triển".
Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 168 quốc gia thuộc tất cả các châu lục, bao gồm tất cả các nước và trung tâm chính trị lớn của thế giới. Việt Nam cũng là thành viên của 63 tổ chức quốc tế và có quan hệ với hơn 500 tổ chức phi chính phủ. Đồng thời, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 165 nước và vùng lãnh thổ. Trong tổ chức
Liên Hiệp Quốc, Việt Nam đóng vai trò là ủy viên ECOSOC, ủy viên Hội đồng chấp hành UNDP, UNFPAUPU. Vai trò đối ngoại của Việt Nam trong đời sống chính trị quốc tế đã được thể hiện thông qua việc tổ chức thành công Hội nghị Thượng đỉnh Cộng đồng Pháp ngữ (La Francophonie) năm 1997, Hội nghị cấp cao ASEAN năm 1998, Hội thảo quốc tế về hợp tác và phát triển Việt Nam và châu Phi năm 2003, Hội nghị cấp cao ASEM-5 năm 2004. Năm 2006, Việt Nam đăng cai tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh APEC vào tháng 11. Ngày 27 tháng 10 năm 2006, nhóm các nước châu Á tại Liên Hiệp Quốc đã nhất trí thông qua quyết định đề cử Việt Nam là ứng cử viên duy nhất cho ghế thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc dành cho châu Á nhiệm kỳ 2008-2009.
Từ ngày
11 tháng 1 năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Đây là một bước ngoặt lớn trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế quốc tế.

Phân cấp hành chính

Xem chi tiết: Các đơn vị hành chính Việt NamTỉnh Việt Nam
Việt Nam được chia ra 59 tỉnh và 5 thành phố trực thuộc trung ương, thủ đô là Hà Nội: An Giang, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bạc Liêu, Bắc Kạn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Bến Tre, Bình Dương, Bình Định, Bình Phước, Bình Thuận, Cà Mau, Cao Bằng, Cần Thơ*, Đà Nẵng*, Đăk Lăk, Đăk Nông, Điện Biên, Đồng Nai, Đồng Tháp, Gia Lai, Hà Giang, Hà Nam, Hà Nội*, Hà Tây, Hà Tĩnh, Hải Dương, Hải Phòng*, Hậu Giang, Hòa Bình, Thành phố Hồ Chí Minh*, Hưng Yên, Khánh Hòa, Kiên Giang, Kon Tum, Lai Châu, Lâm Đồng, Lạng Sơn, Lào Cai, Long An, Nam Định, Nghệ An, Ninh Bình, Ninh Thuận, Phú Thọ, Phú Yên, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Ninh, Quảng Trị, Sóc Trăng, Sơn La, Tây Ninh, Thái Bình, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Thừa Thiên-Huế, Tiền Giang, Trà Vinh, Tuyên Quang, Vĩnh Long, Vĩnh Phúc, Yên Bái.

Dưới cấp tỉnhthành phố trực thuộc trung ương, Việt Nam được chia thành 663 quận, huyện, thị xã hay thành phố trực thuộc tỉnh.
Xem chi tiết:
Danh sách các đơn vị hành chính cấp huyện của Việt Nam

Kinh tế

Xem chi tiết: Kinh tế Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia nghèo và đông dân đang dần bình phục và phát triển sau sự tàn phá của chiến tranh, sự mất mát viện trợ tài chính từ khối các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, và sự yếu kém của nền kinh tế tập trung. Chính sách Đổi Mới năm 1986 thiết lập nền "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Các thành phần kinh tế được mở rộng nhưng các ngành kinh tế then chốt vẫn dưới sự điều hành của Nhà nước. Sau năm 1986, kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển to lớn và đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình khoảng 9% hàng năm từ 1993 đến 1997. Tăng trưởng GDP 8,5% vào năm 1997 đã giảm xuống 4% vào năm 1998 do ảnh hưởng của sự kiện khủng hoảng kinh tế Á châu năm 1997, và tăng lên đến 4,8% năm 1999. Tăng trưởng GDP tăng lên từ 6% đến 7% giữa những năm 2000-2002 trong khi tình hình kinh tế thế giới đang trì trệ. Hiện nay, giới lãnh đạo Việt Nam tiếp tục các nỗ lực tự do hoá nền kinh tế và thi hành các chính sách cải cách, xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết để đổi mới kinh tế và tạo ra các ngành công nghiệp xuất khẩu có tính cạnh tranh hơn.
Việt Nam đã hoàn thành việc xin gia nhập
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Ngày 7 tháng 11 năm 2006, Việt Nam được phép gia nhập sau khi đã kết thúc đàm phán song phương với tất cả các nước có yêu cầu (trong đó có những nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Trung Quốc. Ngày 28 tháng 11, Quốc hội Việt Nam đã chính thức phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới với tỷ lệ phiếu thuận 90,24%[1]. Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức WTO ngày 11 tháng 1 năm 2007.

Số liệu

Các số liệu dưới đây được dịch từ nguồn của Tổng cục Thống kê Việt Nam và Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA)[2].
GDP theo đầu người (
2006)
Theo sức mua tương đương: 3.100 USD
Theo tỷ giá hối đoái: 720 USD
Tỷ lệ tăng trưởng GDP (
2006) 8,17% so với 8,4% năm 2005, 7,69 % năm 2004 và 7,34 % năm 2003.
Tỷ lệ tăng trưởng GDP trung bình hàng năm (
2001-2004) 7,25% so với 6,95% trong giai đoạn 1996-2000.
Tỷ trọng trong GDP (
2006)
Nông nghiệp: 15,97%
Lâm nghiệp: 1.2 %
Công nghiệp và xây dựng: 40.97%
Dịch vụ: 38,01%
Tỷ giá hối đoái (trung bình năm 2006)*
1USD = 16.025 VND
Tỷ lệ lạm phát (năm
2006; tính theo năm): 6.6%; Mức tăng giá bình quân năm 2006 là 7.5%.
Tài chính công
(chính quyền trung ương, tính theo tỷ lệ % của GDP theo giá hiện hành, ước tính cho năm 2003)**
Thu: 22,66%
Chi: 24,70%
Thâm hụt: 2,04%

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (đến 15 tháng 12 năm 2005) 3,9 tỷ USD trong các dự án đăng ký mới, chủ yếu tập trung vào công nghiệp và xây dựng. Ngoài ra, các nhà đầu tư cũng tăng thêm vốn 1,83 tỷ USD vào những dự án đang tồn tại.
Nợ nước ngoài (% GDP, cuối 2005) 35,5%.
Bộ Tài chính dự kiến mức này cho năm 2006 là 34%.
Cán cân thanh toán theo ngoại tệ chuyển đổi (2005)
Xuất khẩu (
f.o.b): 32,23 tỉ USD, tăng 21,6% so với 2004
Nhập khẩu (
c.i.f): 36,88 tỉ USD, tăng 15,4% so với 2004
Thâm hụt thương mại: 4,65 tỉ USD (giảm từ mức thâm hụt 5,45 tỷ USD năm 2004)
Các mặt hàng xuất khẩu chính (2005, % tổng kim ngạch)
Dầu thô (23%), hàng dệt may (15 %), giày dép (9,3%), hải sản (8,5%), điện tử máy tính (4,5%), gạo (4,3%), cao su (2,4%), cà phê (2,2%).
Các mặt hàng nhập khẩu chính (2005, % tổng kim ngạch) Máy móc, thiết bị (14,2%), xăng dầu (13,5%),
thép (8%), vải (6,5%), nguyên phụ liệu dệt may da (6,3%), điện tử máy tính (4,6%), phân bón (1,8%).
Các thị trường xuất khẩu chính (
2003)
Hoa Kỳ (20%), Nhật Bản (14%), Trung Quốc (9%) Úc (7%), Singapore (5%), Đài Loan (4%), Đức (4%), Anh (4%), Pháp (2%), Hà Lan (2%), các nước khác (29%).

8 vùng kinh tế


Giáo dục và khoa học


Du lịch

Số lượng khách du lịch đến Việt Nam đã tăng lên khá nhanh trong vòng 10 năm qua. Khoảng 3.56 triệu khách quốc tế đã tới Việt Nam vào năm 2006, tăng 3.7% kể từ năm 2005. Chính quyền đang đầu tư vốn vào những vùng ven biển vốn đã nổi tiếng về những bãi tắm và những chuyến du lịch trên biển. Nhân viên khách sạn và hướng dẫn viên du lịch trong những vùng này nói tiếng Anh khá thông thạo.

Truyền thông

Chế độ chính trị ở Việt Nam không có đa nguyên, đa đảng, do đó không có truyền thông, báo chí đối lập. Tất cả các cơ quan truyền thông, báo chí ở Việt Nam đều do một cơ quan thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam, một đoàn thanh niên cộng sản hoặc chính quyền... chủ quản, chịu sự lãnh đạo trực tiếp từ cơ quan chủ quản đó và Bộ văn hóa thông tin, mọi lệch lạc xa rời đường lối của đảng Cộng sản đều được chấn chỉnh. Ban tư tưởng văn hóa trung ương giám sát mọi hoạt động của gới truyền thông, báo chí. Việt Nam đang nỗ lực phấn đấu thực hiện công việc hiện đại hóa và mở rộng hệ thống truyền thông của mình, nhưng chất lượng vẫn tiếp tục tụt hậu so với nhiều nước lân cận. Một số các cơ quan truyền thông của nhà nước và báo chí có số phát hành lớn được xã hội quan tâm tiêu biểu sau đây:
Đài tiếng nói Việt Nam: Đài phát thanh quốc gia Việt Nam
Đài Truyền hình Việt Nam: Đài truyền hình quốc gia Việt Nam
Vietnam News Agency: Thông tấn xã Việt Nam
Nhân Dân: Cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam
Quân đội Nhân Dân: Báo Quân đội Nhân Dân
Vietnam Net: Cổng lớn nhất của Việt Nam, điều hành bởi tập đoàn Bưu chính Viễn thông của Chính phủ Việt Nam
Thông tin kinh doanh, chứng khoán, quảng bá website, thiết kế website cập nhật liên tục và tự động.
Việt Báo Việt Nam: Thư viện tổng hợp và lưu trữ tin tức Việt Nam và Thế Giới
Hà Nội Mới: điều hành bởi Đảng bộ Cộng sản Hà Nội
Sài Gòn Giải Phóng: điều hành bởi Đảng bộ Cộng sản Thành phố Hồ Chí Minh
VnExpress: Tờ báo điện tử rất nổi tiếng tại Việt Nam
Tuổi Trẻ: Nhật báo có tổng số phát hành cao nhất, cơ quan chủ quản là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Thanh Niên: Nhật báo có quy mô lớn, cơ quan chủ quản là Liên đoàn Thanh niên Việt Nam
Lao Động: Nhật báo có quy mô lớn, cơ quan chủ quản là Liên đoàn lao động Việt Nam (hiệp hội lao động duy nhất của Việt Nam)
Tiền Phong: Nhật báo có quy mô lớn, thuộc Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
Vietnam Economic Times - Thời báo Kinh tế Việt Nam, dành cho những nhà đầu tư ngoại quốc
Báo trực tuyến - Báo trực tuyến

Văn hóa


Việt Nam có một nền văn hoá rất đa dạng, phong phú và giàu bản sắc dân tộc vì có sự đóng góp của nhiều thành phần dân tộc trên lãnh thổ. Bên cạnh đó, văn hóa Việt Nam còn có một số yếu tố từ sự kết tinh giao thoa giữa nền văn hoá Trung QuốcẤn Độ cùng với nền văn minh lúa nước của người dân bản địa.

Dân tộc

Xem chi tiết: Dân tộc Việt Nam
Theo chính phủ Việt Nam, Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó có 53 dân tộc thiểu số, chiếm khoảng 14% tổng số dân của cả nước. Dân tộc Việt (còn gọi là người Kinh) chiếm gần 87%, tập trung ở những miền châu thổđồng bằng ven biển. Những dân tộc thiểu số, trừ người Hoa, tập trung ở các vùng cao nguyên. Trong số người thiểu số, đông dân nhất là các dân tộc Tày, Thái, Mường, Hoa, Khmer, Nùng..., mỗi dân tộc có dân số khoảng một triệu người. Các dân tộc Brâu, Rơ Măm, Ơ Đu có số dân ít nhất, với khoảng vài trăm cho mỗi nhóm. Có một số dân tộc thiểu số đã định cư trên lãnh thổ Việt Nam từ rất lâu đời, nhưng cũng có các dân tộc chỉ mới di cư vào Việt Nam trong vài trăm năm trở lại đây.

Tôn giáo

Xem chi tiết: Tôn giáo Việt Nam
Theo cuộc điều tra dân số năm 1999, 80,8% không theo tôn giáo, 9,3% theo Phật giáo, 6,7% theo Cơ đốc, 1,5% theo Hoà Hảo và 1,1% là tín đồ Cao Đài. Nhưng theo các nguồn khác[cần chú thích], trên thực tế, người dân Việt Nam đa số thờ Tổ tiên, ông bà (Đạo Mẫu) và theo Phật giáo đại thừa, Khổng giáoĐạo giáo, và một số khá lớn tín đồ Công giáo La Mã, Tin lành; ngoài ra còn hai nhóm tôn giáo nhỏ Cao ĐàiHoà
Hảo
. Các ngôi Chùa và khu di tích Phật giáo linh thiêng và nổi tiếng ở Việt Nam bao gồm Chùa Hương, Chùa Một Cột, Núi Yên Tử, Núi Tây Thiên, Chùa Thiên Mụ, Chùa Vĩnh Nghiêm, Núi Bà Đen, Núi Sam... Các nhà thờ công giáo (Công giáo La Mã - Thiên Chúa giáo) nổi tiếng Việt Nam Nhà thờ chính tòa Hà Nội, Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, Nhà thờ Phát Diệm, Nhà thờ Phú Nhai- Bùi Chu, nhà thờ Quần Phương - Hải Hậu - Nam Định và nhiều nhà thờ khác .... Các nhà thờ Tin lành lớn nhất ở Việt Nam là Nhà thờ phúc âm Việt NamNhà thờ phúc âm phái núi. Các tín đồ Hồi giáo SunniHồi giáo Bashi thường thuộc dân tộc Chăm thiểu số, nhưng cũng có một số người Việt theo Hồi giáo ở phía tây nam đất nước.

Chữ viết

Thứ Hai, 10 tháng 9, 2007

CAMPUCHIA

( Nguồn của Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)
Vương quốc Campuchia : còn được gọi là Căm Bốt (theo
tiếng Pháp: Cambodge) hay Cao Miên (theo âm Hán-Việt của từ "Khmer"), là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương ở vùng Đông Nam Á, nằm nối liền với vịnh Thái Lan ở phía Nam, Thái Lan ở phía Tây, Lào ở phía Bắc và Việt Nam ở phía Đông. Campuchia có ngôn ngữ chính thức là tiếng Khmer, thuộc nhóm Môn-Khmer trong hệ Nam Á.

Lịch sử


Nền văn minh đầu tiên được biết tại Campuchia xuất hiện vào khoảng thiên niên kỷ thứ nhất; từ
thế kỷ 9 đến thế kỷ 13, nền văn minh Khmer đã phát triển rực rỡ ở đây.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng
Phù Nam là vương quốc cổ ở Campuchia, thời thịnh trị có lãnh thổ rộng lớn. Lúc này ở khu vực Bắc Campuchia và Nam Lào có một thuộc quốc là Chân Lạp (Chenla). Vào thế kỷ 7, Chân Lạp thoát khỏi sự lệ thuộc vào Phù Nam rồi chiếm toàn bộ lãnh thổ Phù Nam.
Triều đại cầm quyền của Chân Lạp có nguồn gốc từ nhân vật thần thoại Campu, lấy nàng
Naga (con gái thần nước, biến từ rắn thành thiếu nữ). Tên gọi Campuchia, xuất hiện vào khoảng thế kỷ 10, gắn với tên nhân vật này. Sau năm 707, Chân Lạp tách thành hai quốc gia Lục Chân LạpThủy Chân Lạp.
Sau hàng thế kỷ bị mất đất đai và dân số cho các quốc gia
Thái LanViệt Nam thì Campuchia lại bị bảo hộ bởi Pháp vào năm 1863. Sau sự xâm chiếm của Nhật Bản trong Thế chiến thứ hai thì Pháp lại quay lại. Campuchia tuyên bố độc lập vào năm 1953, trở thành một vương quốc. Năm 1960, Thái tử Norodom Sihanouk lên làm Quốc trưởng chứ không làm vua sau khi vua cha mất. Ông thi hành chính sách trung lập.

Thời kỳ Chiến tranh Việt Nam

Trong
Chiến tranh Việt Nam (1954-1975), chính quyền của tổng thống Mỹ Richard Nixon đã ném hàng loạt bom xuống Campuchia. Một số nguồn ước tính số thương vong dân sự tại đây đạt tới con số 600.000 người. Năm 1970, tướng Lon Nol làm đảo chính lên nắm quyền và tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Khmer. Chính quyền này đã bị lật đổ bởi những người theo đường lối dân tộc cực đoan và mang danh cộng sảnKhmer Đỏ.
Khmer Đỏ cầm quyền
Khmer Đỏ do
Pol Pot lãnh đạo nắm được chính quyền do sự oán hận của dân chúng vì những cuộc ném bom của Mỹ. Khmer Đỏ chiếm thủ đô Phnom Penh vào tháng 4 năm 1975 và từ đó tên quốc tế của nước này là Kampuchea Dân chủ. Khoảng 1,7 triệu người đã chết trong khoảng thời gian ba năm cải tạo xã hội của Khmer Đỏ sau đó.
Cuối năm
1978 sau khi chính quyền Pol Pot đem quân xâm lấn toàn tuyến biên giới với Việt Nam thì Việt Nam tổ chức chiến dịch phản công đưa quân vào Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng Khmer Đỏ (7 tháng 1 năm 1979) và đưa quân tới sát biên giới phía tây với Thái Lan.
Tiếp theo là 13 năm của các cuộc chiến nhỏ lẻ tẻ trước khi
Liên hiệp quốc hỗ trợ bầu cử năm 1993 và giúp cho nước này khôi phục lại tình trạng bình thường.
Cộng hòa Nhân dân Campuchia
Được Việt Nam hậu thuẫn, ngày
8 tháng 1 năm 1979 Hội đồng Nhân dân Cách mạng nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia do Heng Samrin làm Chủ tịch đã được thành lập. Tuy vậy chính quyền này chỉ được một số nước cộng sản công nhận và chưa tự bảo vệ được mà vẫn cần đến sự có mặt của quân đội Việt Nam. Năm 1981, Cộng hòa Nhân dân Campuchia tổ chức bầu quốc hội và ban hành hiến pháp.
Trong thời gian này, Kampuchea Dân chủ của Khmer Đỏ vẫn giữ được ghế đại diện cho Campuchia ở Liên hiệp quốc.
Ngày
22 tháng 6 năm 1982, Chính phủ Liên hiệp ba phái Campuchia do Norodom Sihanouk làm Chủ tịch, Khieu Samphon (phái Khmer Đỏ) làm Phó Chủ tịch và Son Sann (phái thứ ba) làm Thủ tướng được thành lập tại Kuala Lumpur (Malaysia).
Việt Nam đã rút quân ra khỏi Campuchia trước kế hoạch (1990) và chính phủ tại Phnom Penh chấp nhận đàm phán với Chính phủ Liên hiệp ba phái Campuchia. Việc rút quân đội Việt Nam được hoàn tất ngày 26 tháng 9 năm 1989.

Sihanouk trở về


Sau nhiều phen thương lượng,
Hoàng thân Sihanouk đã trở về Phnom Penh ngày 23 tháng 11 năm 1991 sau 13 năm vắng mặt và một cuộc tuyển cử tự do được tổ chức năm 1993 dưới sự giám sát của Liên hiệp quốc.
Chính phủ liên hiệp được lập sau bầu cử
1998 đem lại sự ổn định về chính trị, Khmer Đỏ không tham gia mà tiếp tục chống đối. Không có ai trong số các thủ lĩnh của Khmer Đỏ bị xét xử vì những tội ác diệt chủng mà họ đã phạm trong ba năm nắm chính quyền của họ.
Ngay sau đó,
Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia lật ngược tình thế: loại các thành phần hoàng gia chống đối rồi tiêu diệt, bắt giữ Khmer Đỏ. Hậu quả của thời kỳ Hoàng thân Sihanouk trở về là một số nơi rơi vào tình trạng vô chính phủ, nay đang được khắc phục.

Thời kỳ
Hun Sen

Campuchia mở của và thân thiện với thế giới, sớm gia nhập
WTO. Tuy vậy, kinh tế và mức sống vẫn phát triển chậm. Một phần do quyền lực thực tế của chính quyền chưa hoàn thiện.
Kinh tế Campuchia quan hệ rất gần gũi với Việt Nam.
Việc xét xử Khmer Đỏ diễn ra hết sức chậm chạp do những thế lực đã ủng hộ họ. Phần lớn các nhân vật quan trọng của tổ chức này đã chết già mà không bị tòa kết án.


Chính trị

Chính trị Campuchia đươc nhiều người nước ngài biết đến bởi thời kỳ diệt chủng của Khmer Đỏ, việc này gây ra những đổ vỡ lớn trong nội bộ những nước đã từng ủng hộ chế độ này.
Đất nước này được cai trị bởi Quốc vương
Norodom Sihanouk sau khi ông trở lại làm vua vào tháng 9 năm 1993. Đây là chế độ quân chủ lập hiến và trên thực tế quốc vương không điều hành đất nước. Cuối tháng 10 năm 2004 Norodom Sihanouk truyền ngôi lại cho Thái tử Norodom Sihamoni.
Đảng cầm quyền hiện nay là
Đảng Nhân dân Campuchia (CPP), thủ tướng đương nhiệm là Hun Sen.
Campuchia là thành viên của
Liên hiệp quốcHiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Nước này đã đạt được sự ổn định tương đối về chính trị trong những năm gần đây, kể từ khi chế độ Khmer Đỏ bị lật đổ năm 1979 bởi Việt Nam.

Các tỉnh

Campuchia được chia thành 20 tỉnh (khett, số ít và số nhiều) và 4 thành phố trực thuộc trung ương (krong, số ít và số nhiều). Các đơn vị hành chính cấp thấp là huyện (srok), xã (khum). Ngoài ra còn có các đảo (koh).
1. Các thành phố (Krong):
o
Phnom Penh
o
Sihanoukville (Kampong Som)
o
Pailin
o
Kep
2. Các tỉnh (Khett):
o
Banteay Meanchey, Battambang, Kampong Cham, [[Kampong Chhnang, Kampong Speu, Kampong Thom, Kampot, Kandal, Koh Kong, Kratié, Mondulkiri, Oddar Meancheay, Pursat, Preah Vihear, Prey Veng, Ratanakiri, Siam Reap, Stung Treng, Svay RiengTakéo
3. Các đảo (Koh):
o
Koh Sess, Koh Polaway, Koh Rong, Koh Thass, Koh Treas, Koh Traolach, Koh Tang

Địa lý

Diện tích Campuchia khoảng 181.040 km², có 800 km biên giới với
Thái Lan về phía bắc và phía tây, 541 km biên giới với Lào về phía đông bắc, và 1.137 km biên giới với Việt Nam về phía đông và đông nam. Nước này có 443 km bờ biển dọc theo Vịnh Thái Lan.
Đặc điểm địa hình nổi bật là một hồ lớn ở vùng đồng bằng được tạo nên bởi sự ngập lụt. Đó là hồ
Tonle Sap (Biển Hồ), có diện tích khoảng 2.590 km² trong mùa khô tới khoảng 24.605 km² về mùa mưa. Đây là một đồng bằng đông dân, phù hợp cho cấy lúa nước, tạo thành vùng đất trung tâm Campuchia. Phần lớn (khoảng 75%) diện tích đất nước nằm ở cao độ dưới 100 mét so với mực nước biển, ngoại trừ dãy núi Cardamon (điểm cao nhất là 1.771 m), phần kéo dài theo hướng bắc-nam về phía đông của nó là dãy Voi (cao độ 500-1.000 m) và dốc đá thuộc dãy núi Dangrek (cao độ trung bình 500 m) dọc theo biên giới phía bắc với Thái Lan.
Nhiệt độ dao động trong khoảng 10-38°C. Campuchia có các
mùa mưa nhiệt đới: gió tây nam từ Vịnh Thái Lan/Ấn Độ Dương đi vào đất liền theo hướng đông bắc mang theo hơi ẩm tạo thành những cơn mưa từ tháng 5 đến tháng 10, trong đó lượng mưa lớn nhất vào khoảng tháng 9, tháng 10; gió đông bắc thổi theo hướng tây nam về phía biển trong mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3, với thời kỳ ít mưa nhất là tháng 1, tháng 2.
Campuchia cũng là quốc gia có nhiều loài động vật quí hiếm trên thế giới sinh sống, nổi bật nhất là
hổ, voibò tót khổng lồ. Rất nhiều loài đang đứng trước hiểm họa diệt chủng do nạn săn trộm và phá rừng.

Kinh tế


Sự phát triển của nền kinh tế Campuchia bị chậm lại một cách đáng kể trong thời kỳ
1997-1998 vì khủng hoảng kinh tế trong khu vực, bạo lực và xung đột chính trị. Đầu tư nước ngoài và du lịch giảm mạnh. Trong năm 1999, năm đầu tiên có được hòa bình thực sự trong vòng 30 năm, đã có những biến đổi trong cải cách kinh tế và tăng trưởng đạt được ở mức 5%. Mặc dù bị ngập lụt tràn lan, GDP tăng trưởng ở mức 5.0% trong năm 2000, 6.3% trong năm 2001 và 5.2% trong năm 2002. Du lịch là ngành công nghiệp tăng trưởng mạnh nhất của Campuchia, với số du khách tăng 34% trong năm 2000 và 40% trong năm 2001 trước sự kiện khủng bố 11 tháng 9 năm 2001 tại Mỹ. Mặc dù đạt được những sự tăng trưởng như vậy nhưng sự phát triển dài hạn của nền kinh tế sau hàng chục năm chiến tranh vẫn là một thách thức to lớn. Dân cư thất học và thiếu các kỹ năng nghề nghiệp, đặc biệt là ở vùng nông thôn nghèo đói gần như chưa có các điều kiện cần thiết của cơ sở hạ tầng. Sự lo ngại về không ổn định chính trị và tệ nạn tham nhũng trong một bộ phận chính quyền làm chán nản các nhà đầu tư nước ngoài và làm chậm trễ các khoản trợ giúp quốc tế. Chính quyền đang phải giải quyết các vấn đề này với sự hỗ trợ của các tổ chức song phương và đa phương.
Campuchia đã gia nhập tổ chức
Tổ chức Thương mại Thế giới từ ngày 13 tháng 10 năm 2004.
Đầu năm
2007, nhiều nghiên cứu của Liên Hiệp Quốc, Ngân hàng Thế giới, Đại học Harvard và nhiều tổ chức uy tín khác trên thế giới được công bố: cho rằng Campuchia có trữ lượng có thể lên đến 2 tỉ thùng dầu và 10.000 tỉ mét khối khí đốt.

Dân cư

Campuchia là quốc gia thuần nhất về dân cư với hơn 90% dân số là
người Khmer và nói tiếng Khmer, là ngôn ngữ chính thức. Các dân tộc thiểu số chiếm khoảng 3% dân số. Dân tộc Chăm, theo đạo Hồi là nhóm sắc tộc thiểu số lớn nhất. Các nhóm sắc tộc thiểu số khác sống tại các khu vực miền núi và cao nguyên. Ở đây còn có rất nhiều cư dân người Việt (khoảng 12%).
Phật giáo Tiểu thừa bị Khmer đỏ hủy diệt đã được phục hồi là tôn giáo chính thức. Các tôn giáo khác như Thiên chúa giáo đang được du nhập vào.
Tiếng PhápTiếng Anh được nhiều người Campuchia sử dụng như là ngôn ngữ thứ hai và thông thường là ngôn ngữ phải học trong các trường phổ thông và đại học. Nó cũng được sử dụng thường xuyên trong chính quyền. Phần lớn trí thức mới của Camphuchia được đào tạo tại Việt Nam là một thuận lợi cho quan hệ kính tế, văn hóa ba nước Đông Dương.

Nghệ thuật

Kiến trúc của Campuchia phần lớn được biết đến nhờ vào những công trình được xây dựng từ thời thời người Khmer cổ đại (khoảng cuối
thế kỷ 12, đầu thế kỷ 13). Đạo Phật và tư duy huyền thoại có ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật trang trí các công trình kiến trúc vĩ đại này.
Đặc trưng cơ bản của kiến trúc giai đoạn này là được xây dựng từ vật liệu gỗ, tre nứa hoặc rơm rạ và đá. Nhưng những gì còn lại ngày nay người ta có thể chiêm ngưỡng là các công trình bằng đá tảng như các bức tường thành, đường sá,... và các ngôi đền hoặc các con đường có những bao lơn tạc hình con rắn chín đầu, vươn cao 2-3 m, xòe rộng phủ bóng xuống mặt đường. Còn hình thức chung của các ngôi đền là có đỉnh chóp nhọn, bốn mặt đền được chạm trổ các bức phù điêu miêu tả cuộc sống con người ở thế giới bên kia, hoặc cuộc sống hiện tại của người dân Campuchia bấy giờ, hay cuộc chiến với nước láng giềng vũ nữ dân gian (Ápsara)với thân hành mềm mại, cân đối đang múa khá uyển chuyển, và sự tham gia của cả những con khỉ, con ngựa trong sử thi Ramanaya của
Ấn Độ.
Bên cạnh đó, hình thức khắc những ký tự hay con số cũng rất phổ biến ở công trình. Các ngôi đền thường có 1 cửa còn ở ba phía còn lại của đền cũng có cửa nhưng chỉ là giả, để tạo cảm giác đối xứng cho ngôi đền. Công trình nổi tiếng nhất ở đây là ngôi đền Bayon với 200 gương mặt của thần Avalokitesvara (một dạng của
Quan Âm Bồ Tát).
Chiêm ngưỡng những công trình này, ta không thể không khâm phục sức mạnh phi thường và bàn tay tài ba của những người dân Khmer cổ đại. Kiến trúc của Campuchia cũng có ảnh hưởng lớn đến kiến trúc của Thái Lan và người Chăm của Việt Nam.